Sử sách cho biết: Trong nhiều triều đại phong kiến, Lễ hội Trường Yên là một quốc lễ, vì đây là nơi, là dịp tưởng niệm hai vị Hoàng đế, anh hùng dân tộc: Đinh Tiên Hoàng và Lê Đại Hành.
Về dự Lễ hội Cố đô Hoa Lư là dịp để các thế hệ công dân của nước Đại Cồ Việt xưa, nay là nước Việt Nam như cùng nhau tiếp nối, khơi thêm dòng chảy của lịch sử cộng đồng dân tộc từ nghìn năm về trước, với sứ mệnh dựng nước, giữ nước, chấn hưng, phát triển và tự chủ.
“Hành hương gieo bước đất Trường Yên.
Vách đá hiên ngang núi một triền.
Tưởng nhớ vua Đinh nhào nặn đá.
Bền xây tự chủ, móng đầu tiên”.
(Thơ Huy Cận).
Không gian của Lễ hội là cả một vùng rộng lớn, gồm: Hai khu vực đền vua Đinh và đền vua Lê (trung tâm), chùa Nhất Trụ, phủ Bà Chúa, núi Mã Yên, sông Hoàng Long, động Am Tiêm, Thiên Tôn Động, Xuyên Thuỷ Động… Mỗi núi, sông, đền đài, lăng tẩm nơi đây hằng gợi nhớ một thuở hào hùng của dân tộc và xã tắc.
Phần lễ ở đây có: Lễ rước nước, lễ dâng hương, tế nữ quan, tế nam quan… Phần hội thường có: Tập trận cờ lau, múa rồng, múa lân, kéo chữ, đấu vật, chọi gà và gần đây có thêm tiết mục làng vui chơi, làng ca hát, cuộc thi người đẹp Cố đô Hoa Lư…
Vào buổi sáng ngày khai hội hàng năm thường diễn ra lễ rước nước. Lễ thức đặc biệt này được chuẩn bị rất công phu, kỹ lưỡng. Trước ngày khai hội, ở bến sông Hoàng Long gần cửa Đại Hoàng xưa, người ta trồng dưới sông cả một cây tre lớn, cành lá xanh tốt. Nơi ngọn tre có treo dải phướn bằng vải màu sặc sỡ ghi lời chú.
Nội dung lời chú trước đây đại lược là: Thần dân, con cháu trăm họ luôn nhớ ơn Rồng Vàng ở sông này đã cứu giúp vị Hoàng đế nước Đại Việt, sau dựng nên cơ nghiệp nhà Đinh, dẹp nạn cát cứ sứ quân, thu giang sơn về một mối. Cầu mong thần linh giữ cho dòng nước mát hiền hoà, phù trợ cho dân nước Đại Việt tránh mọi điều ác dữ…
Ngày khai hội, khi mặt trời còn chưa ló lên khỏi Mã Yên Sơn, đoàn người đi rước nước đã khởi hành từ cổng đền vua Đinh, qua đền vua Lê để ra bến sông. Dẫn đầu là những người mang cờ ngũ sắc, đi hàng đôi. Kế tiếp là phường bát âm, gồm: Đàn, sáo, nhị, mõ, thanh la và cả một phường trống. Phường bát âm cử nhạc réo rắt các làn điệu: Kim tiền, bình bán, lưu thủy, xuân phong. Tiếng trống, tiếng thanh la âm vang sôi động.
Cỗ kiệu lớn đi đầu do tám thanh niên khỏe mạnh khiêng. Trang phục của họ tựa như trang phục lính túc vệ nhà Đinh xưa: áo đỏ, vàng, cổ áo viền xanh, đầu chít khăn theo lối “thủ rìu”. Hương án trên kiệu có đặt một chiếc bình sứ, ngoài phủ vải điều để đựng nước thiêng. Đi sau kiệu rước này là các vị bô lão, quan khách, đại biểu các đoàn thể, địa phương. Tiếp đến là đội rồng, đội lân, rồi các cỗ kiệu bát cống có hương án, tán lọng, hương, nến, quả, phẩm song hành, nghiêm trang, chỉnh tề, náo nhiệt. Đi bên mỗi kiệu rước là một vị bô lão vận phục trang lễ nghi dân tộc.
Khi đoàn rước ra tới bến sông thì hương án có đặt bình sứ được đưa xuống thuyền trước tiên, sau đó là rồng vàng, sư tử. Trống chiêng gióng lên từng hồi, âm vang rộn rã, thúc giục. Rồng vàng uốn lượn uy phong trên sóng nước. Sư tử múa dũng mãnh, hả hê. Lúc này mới chớm dịp trung tuần tháng Ba âm lịch, vào giờ Thìn, thủy triều đang lên, bề mặt sông Hoàng Long phong quang, cường thịnh.
Vị chủ lễ trịnh trọng đọc bản sớ trình xin rước nước. Xong, vị chủ lễ cùng các “quần thần” đốt hoá bản sớ trình, thả xuống dòng sông. Bốn trinh nữ (vận áo tân thời, xưa kia vận áo tứ thân) nhẹ nhàng, thanh thoát múc nước sông đổ vào bình sứ để đưa lên kiệu rước trở về đền vua Đinh trước khi làm lễ dâng hương. Đoàn rước trở về theo thứ tự như lúc khởi hành.
Các vị bô lão người Hoa Lư cho biết: Từ đầu thế kỷ trước cho tới nay mới có lệ các thôn nữ ra sông lấy nước thiêng về tế vua, cũng là hợp lẽ lắm. ấy là vì các thôn nữ ta xưa nay vốn chăm chỉ sớm khuya việc nông trang, đảm đang một nắng hai sương chăm bón gieo trồng. Xưa kia, Thái hậu Dương Vân Nga, một phụ nữ đã vì nghiệp lớn mà buông mành nhiếp chính, gánh vác việc giang sơn. Phụ nữ nói chung là hiện diện của cõi âm trong thuyết âm dương cổ. “Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”. Đó là lẽ trời, lẽ đời vậy.
Lễ rước nước là một lễ thức có ở không ít lễ hội cổ truyền trong và ngoài nước và phổ biến ở những lễ hội được phát sinh, lưu truyền trên cơ sở nền kinh tế, nền văn minh nông nghiệp lúa nước. Qua bao phen bể dâu biến cải, vàng đá phôi pha, lễ thức này vẫn là sự biểu hiện sinh hoạt văn hoá – tâm linh sống động, đặc sắc của các cộng đồng cư dân nông nghiệp ở nhiều nơi.
Nhưng nét đặc sắc mà lễ rước nước hội truyền thống Cố đô Hoa Lư có được chính là không gian sông nước. Bến sông Hoàng Long, nơi diễn ra nghi lễ tế thần linh và rước nguồn nước thiêng truyền thống vẫn gợi nhớ một truyền thuyết dân gian ly kỳ, hấp dẫn kể về sự tích rồng vàng hiện lên đưa Đinh Bộ Lĩnh sang sông mà thoát khỏi lưỡi gươm giận dữ của người chú ruột.
Về sau, Đinh Bộ Lĩnh làm nên nghiệp lớn, thống nhất giang sơn, dựng Kinh đô Hoa Lư, đặt triều chính, trở thành Đại Thắng Minh Hoàng Đế. Dòng sông từ bấy có tên là Hoàng Long Giang (sông Rồng Vàng). Bên kia bến sông này là một trái núi đứng độc lập, có tên gọi là núi Cắm Gươm như một chứng tích đẹp, hào hùng.
Truyền thuyết dân gian về rồng vàng, sông Hoàng Long, núi Cắm Gươm chất chứa những hoài niệm và sự lý tưởng hóa của cộng đồng dân tộc về “con rồng cháu tiên”, đặc biệt là về người anh hùng lập quốc, vị Hoàng đế họ Đinh cách nay đã dư một nghìn năm. Huyền tích này sẽ mãi còn mang đậm chất sử thi mà người đời sau vẫn tự hào, yêu thích…
Lễ rước nước hội truyền thống Cố đô Hoa Lư hàng năm biểu hiện một mối quan hệ mật thiết, hữu cơ giữa quá khứ, hiện tại và tương lai của cả cộng đồng lớn, bao hàm được những yếu tố: Linh khí núi sông, tâm thức dân gian về cội nguồn đất nước, dân tộc theo đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”.
Nguyễn Quang Hải
Nguồn: Báo Ninh Bình điện tử